Thị trường ra sao trong những lần FED tăng lãi suất
Hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới lớn đều tận dụng công cụ lãi suất để kiềm chế lạm phát, và việc tăng hay duy trì lãi suất phụ thuộc vào các yếu tố thúc đẩy lạm phát của từng quốc gia, như triển vọng tăng trưởng kinh tế, thị trường việc làm, mức độ chi tiêu của người dân, thị trường bất động sản, mức tăng trưởng lương bình quân,...
Tại Mỹ, FED là cơ quan có thẩm quyền quyết định mức lãi suất hàng năm của quốc gia này. Với vai trò là nền kinh tế hàng đầu thế giới, mỗi quyết định tăng hay giảm lãi suất của FED đều ảnh hưởng đến thị trường toàn cầu, trong đó bao gồm cả thị trường crypto.
Lịch sử các lần tăng lãi suất trong các cuộc khủng hoảng
Chu kỳ tăng lãi suất 1980 - 1982 - 1986
Chu kỳ tăng lãi suất sớm nhất của FED được cho là gắn với cuộc khủng hoảng tài chính trên thế giới. Sau khi bãi bỏ chế độ bản vị vàng theo cam kết tại Hiệp định Bretton Woods vào năm 1971, đồng USD đã mất giá tới 50%. Cơn ác mộng kinh tế từ năm 1973 - 1981 là sự đối lập với sự thăng bằng con đường xuất khẩu mà hành động phá giá đồng USD hướng tới. Vì thế, tháng 6/1981, FED đã tăng lãi suất lên 20%, giảm phát hành từ 12.5% xuống 1.1% vào năm 1986.
Lạm phát đã được đẩy lùi. Nhưng chính chu kỳ tăng lãi suất này đã gây ra cuộc khủng hoảng nợ công tại các quốc gia Mỹ Latinh những năm 1980, được xem là cuộc khủng hoảng nợ công đầu tiên trong lịch sử kinh tế hiện đại. Nguyên nhân là bởi họ đã đi vay rất nhiều USD giá rẻ từ Mỹ. Khi FED tăng lãi suất thì các quốc gia đó vỡ nợ.
Tuy nhiên, đồng USD mạnh lên cũng làm gia tăng thâm hụt thương mại với Đức và Nhật Bản. Vì vậy, các ngành công nghiệp Mỹ đã tìm ra biện pháp bảo hộ mới: phá giá đồng USD. Tháng 09/1985, Hiệp ước Plaza (New York) được ký kết, theo đó, đồng USD giảm 40% so với đồng Franc của Pháp, 50% so với đồng Yên Nhật và 20% so với đồng Mark Đức. Nhật Bản đã lâm vào suy thoái kinh tế gần 20 năm do đồng Yên lên giá từ đó.
Chu kỳ tăng lãi suất 1994 - 1997
Chính sách tiền tệ nới lỏng và việc tự do hóa tài chính ở Mỹ, châu Âu và Nhật Bản cuối thập niên 1980 đã khiến cho thanh khoản toàn cầu trở nên cao quá mức. Các nhà đầu tư bắt đầu tìm cách thay đổi danh mục tài sản của mình bằng cách chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài. Trong khi đó, các nước châu Á lại thực hiện chính sách tự do hóa tài khoản vốn. Lãi suất ở các nước châu Á cao hơn ở các nước phát triển. Chính vì thế, các dòng vốn quốc tế đã ồ ạt chảy vào các nước châu Á.
Trong giai đoạn 1990 - 1997, lượng vốn tư nhân chảy vào các nước đang phát triển tăng 5 lần, từ 42 tỷ đô lên 256 tỷ đô. Đông Á là nơi thu hút lượng lớn dòng vốn này, chiếm tới 60% tổng vốn. Do thiếu các biện pháp kiểm soát, nhiều nền kinh tế châu Á đã rơi vào tình trạng quá phụ thuộc vào các khoản vay ngắn hạn. Cuối năm 1996, các nước Đông Á đã nợ các ngân hàng châu Âu 318 tỷ đô, ngân hàng Nhật Bản 260 tỷ đô và ngân hàng Mỹ 46 tỷ đô, đa số là dưới hình thức vay ngắn hạn - dưới một năm.
Đến năm 1994, FED đã tăng lãi suất lên gấp đôi: từ 3% lên 6%/năm. Đến 1997, các nhà tài phiệt của Mỹ đã thực hiện liệu pháp “bán khống” làm cho các thị trường chứng khoán Thái Lan, Hàn Quốc, Indonesia cho đến Hongkong sụp đổ. Cuộc khủng hoảng đã làm châu Á thiệt hại khoảng 3,000 tỷ đô.
Chu kỳ tăng lãi suất 2004 - 2007
Sau cuộc khủng hoảng châu Á, FED đã duy trì lãi suất siêu thấp 1% khá dài. Trong thời gian đó, các nước đã vay nợ với mức độ khủng khiếp ước tính khoảng 55,000 tỷ đô. Hiện tượng đô la hóa nợ càng làm cho FED có cơ hội phát hành đồng USD dồi dào, đáp ứng nhu cầu thanh khoản trên phạm vi toàn cầu.
Đến năm 2002, FED bắt đầu tăng lãi suất lên 2.5% và đến năm 2004 lên đến 5.5%. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất dưới chuẩn bùng nổ với ước tính thiệt hại khoảng 1,200 tỷ đô, nhưng FED đã bí mật in 16,000 tỷ đô cùng với 4,000 tỷ đô ngân sách của các quốc gia được huy động để cứu trợ ngân hàng. Sự cứu trợ hào phóng này đã chuyển nợ tư thành nợ công và làm tăng thêm nợ nần của các quốc gia châu Âu, biến các quốc gia này thành con nợ của Mỹ.
Chu kỳ tăng lãi suất 2016 - 2020
Ngày 16/12/2015, FED công bố tăng lãi suất cơ bản 0.25% và có kế hoạch tăng lên 3.25% đến năm 2020. Khác với các chu kỳ trước, FED đã kéo dài thời gian tăng lãi suất của chu kỳ này lên tới 4 năm.
Trong giai đoạn 2016 và đầu 2017, FED đã trì hoãn lịch trình tăng lãi suất với lý do để chờ đợi sự hồi phục kinh tế Mỹ. Tuy nhiên, thực chất là bởi giai đoạn này các nước lớn như Nhật Bản, Anh và khu vực Euro đang ồ ạt đưa ra các gói kích thích, phá giá đồng nội tệ để đối phó với chính sách USD rẻ của FED. Tương kế tựu kế, một mặt FED công bố kế hoạch tăng lãi suất, mặt khác vẫn bơm hàng nghìn tỷ USD vào nền kinh tế toàn cầu, làm tăng số nợ của các quốc gia trước khi tăng lãi suất cao để thu lời về Mỹ.
Điểm khác biệt nữa ở chu kỳ này là khi Tổng thống mới của Mỹ Donald Trump lại ráo riết thực hiện chính sách bảo hộ mậu dịch và tái công nghiệp hóa nước Mỹ. Chu kỳ tăng lãi suất này đã đem lại nhiều lợi nhuận hơn cho Mỹ so với các chu kỳ trước và cũng đặt ra nhiều thách thức hơn cho kinh tế thế giới.
Tác động tới thị trường sau khi tăng lãi suất
Là nền kinh tế hàng đầu thế giới, việc tăng lãi suất của FED có thể tạo ra ảnh hưởng theo hiệu ứng dây chuyền trên khắp thế giới.
Giảm tăng trưởng kinh tế
Mặc dù ở thời điểm hiện tại, FED nhận định nền kinh tế Mỹ vẫn trong giai đoạn ổn định nhưng nhiều chuyên gia cho rằng các dấu hiệu suy thoái kinh tế có thể sẽ xảy ra nếu FED tiếp tục tăng lãi suất, do hệ lụy từ việc giảm tiêu dùng và đầu tư tại Mỹ.
Lãi suất trái phiếu chính phủ trong các kỳ hạn khác nhau có khả năng hội tụ vì không có khác biệt khi mua trái phiếu ngắn hạn và dài hạn do các mức lãi suất gần như tương đương nhau.
Thị trường tín dụng
Theo lý thuyết kinh tế cơ bản, lãi suất cao hơn dẫn đến việc giảm cung tiền và giá đồng USD tăng cao. Đồng thời, thị trường cho vay và tín dụng cũng co lại. Khi lãi suất tăng, chi phí tín dụng cũng tăng theo, từ các khoản vay ngân hàng cho đến các khoản vay thế chấp, việc vay mượn trở nên đắt đỏ hơn.
Do đó, người tiêu dùng và các doanh nghiệp có thể sẽ vay và chi tiêu ít, từ đó giảm lạm phát. Tuy nhiên điều này cũng có thể gây ra tác động kép là cản trở tiêu dùng và sản xuất.
Thị trường hàng hóa
Thị trường hàng hoá như dầu, vàng, bông và các hàng hóa toàn cầu khác được định giá bằng USD, trong trường hợp giá USD tăng, cũng sẽ tăng theo. Các nền kinh tế dựa chủ yếu vào việc sản xuất hàng hóa và nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú sẽ gặp khó khăn hơn. Khi các sản phẩm công nghiệp chính giảm giá trị, dòng tín dụng khả dụng của họ sẽ bị thu hẹp.
Ngoại thương
Lãi suất từ FED tăng sẽ có lợi cho thương mại quốc tế. Đồng USD mạnh hơn sẽ đi kèm với việc tăng lãi suất sẽ thúc đẩy nhu cầu đối với các sản phẩm trên toàn thế giới, tăng lợi nhuận doanh nghiệp cho các công ty trong và ngoài nước.
Xuất nhập khẩu và đầu tư
Khi lãi suất FED tăng, tỷ giá USD so với các đồng nội tệ khác cũng tăng. Xuất khẩu sẽ được hưởng lợi. Tuy nhiên, tình hình nhập khẩu cũng sẽ phải chịu nhiều tác động.
Tình hình đầu tư thường có sự chuyển dịch nguồn vốn sang những kênh an toàn hơn. Các nhà đầu tư có thể quay trở lại nền kinh tế Mỹ nếu nước này vẫn duy trì việc quản lý rủi ro kinh tế và mức lãi suất hợp lý.
Chứng khoán
Thị trường chứng khoán thường có dấu hiệu đạt đỉnh trong thời gian FED tăng lãi suất. Lịch sử giá các giai đoạn đều đang cho thấy điều này. Giai đoạn 1998 - 2000, 2004-2007, 2016-2018, khi Fed tăng lãi suất thì S&P500 có dấu hiệu tăng theo sau đó tạo đỉnh, giảm khi Fed giảm lãi suất.
Lần tăng lãi 2022 tới nay
Trong giai đoạn từ 2012 - 2020, lạm phát của Mỹ vẫn luôn ở quanh ngưỡng 2%. Nhưng kể từ giai đoạn hậu Covid 19, tỷ lệ lạm phát dường như vượt ra khỏi tầm kiểm soát, từ 4.02% năm 2021 đã tăng mạnh lên 6.26% vào năm 2022.
Thời điểm này, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Mỹ đã tăng lên 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trở thành mức tăng cao nhất trong vòng 39 năm. Mọi chi phí tại Mỹ đều tăng chóng mặt, như giá thực phẩm tăng 6,4%, giá năng lượng (xăng và điện) tăng hơn 33%. Trước tình hình này, FED cần hành động tăng lãi suất ngay để giảm thiệt hại cho người tiêu dùng và nền kinh tế, đưa lạm phát về mức mục tiêu 2%.
Chiến dịch tăng lãi suất bắt đầu từ tháng 3/2022 khi lãi suất đã tăng từ con số 0 lên 5 - 5,25%, định mốc 10 lần tăng liên tiếp. Đây cũng là mức lãi suất cao nhất kể từ 08/2007 đến nay.
Đêm 14/06/2023, FED đã ra quyết định tạm dừng tăng lãi suất. Hiện lãi suất đang ổn định ở mốc 5 - 5.25%. Đây được xem là “khoảng dừng” cần thiết để FED đánh giá, xem xét tác động của chính sách lãi suất đối với hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng và thị trường nói chung.
Thị trường vẫn được dự báo rằng trước khi kết thúc năm nay, FED sẽ có thêm 2 lần tăng lãi suất, với bước nhảy 25 điểm phần trăm mỗi lần.
Biểu đồ dot plot (hiển thị dự báo của các nhà hoạch định chính sách về hướng đi của lãi suất trong tương lai) cho thấy, FED đang kỳ vọng mức lãi suất sẽ cao hơn. Mục tiêu mà các quan chức của FED đang hướng tới là lãi suất liên bang vào cuối năm nay sẽ đạt 5.5% - 5.75%.
Mục tiêu này một lần nữa được khẳng định bởi Chủ tịch FED Jerome Powell tại cuộc họp báo mới nhất:
"Chúng tôi quyết định giữ nguyên lãi suất và tiếp tục giảm nắm giữ lượng chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp. Trong năm nay, gần như tất cả các thành viên Ủy ban đều cho rằng có thể một số đợt tăng lãi suất nữa sẽ là phù hợp để đưa lạm phát giảm dần về mức 2%".
Cũng theo những kỳ vọng của FED, lãi suất chuẩn vào năm 2024 có thể ở mức 4.6% và 2025 là 3.4%. Điều này cũng đồng nghĩa với việc, FED sẽ chỉ bắt đầu hạ lãi suất vào năm 2024, nếu kỳ vọng này vẫn được giữ nguyên.
Thị trường crypto ảnh hưởng như thế nào?
Giai đoạn 2020 và 2021 khi tỷ lệ lãi suất của FED giảm về 0%, giá BTC nói riêng và cả thị trường crypto nói chung đã chứng kiến một đợt bull run mạnh và đạt đỉnh lịch sử. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong nhiều yếu tố góp phần thúc đẩy giá BTC tăng trong thời gian này.
Từ cuối năm 2021 đến đầu năm 2022, giá Bitcoin giảm mạnh trùng với thời điểm FED tăng lãi suất. Cụ thể, vào tháng 12/2021, khi FED thông báo sẽ bắt đầu giảm mua trái phiếu và báo hiệu về việc tăng lãi suất sắp tới, thị trường tiền điện tử đã phản ứng giảm nhanh chóng đến hơn 30% giá trị.
Trong năm 2022, cả thị trường tiếp tục chìm trong sắc đỏ khi vốn hoá đến cuối năm chỉ còn khoảng 757 tỷ đô, mất gần 73% so với mức đỉnh đạt được vào tháng 11/2021 (2,847 tỷ đô). Tuy nhiên nguyên nhân phần lớn được cho là do sự sụp đổ của nhiều dự án và công ty đầu ngành blockchain: Terra, FTX,... cũng như chính sách thắt chặt kiểm soát thị trường tiền điện tử từ các quốc gia và tổ chức tài chính trên thế giới.
Từ đầu năm 2023, thị trường crypto đã có sự khởi sắc trở lại khi giá BTC tăng gần 78%, ETH tăng 60% và vốn hoá toàn thị trường trở lại ngưỡng trên 1,000 tỷ đô. Sau thông báo dừng tăng lãi suất của FED vào đêm 14/06, rạng sáng ngày 15/06, cả thị trường tiền điện tử “đỏ lửa”.
Cụ thể, giá BTC đã “chảy máu” đến gần 5%, giật về mốc $24,800, hiện đã tăng lên mốc $30,780, cao hơn đáng kể so với vùng giá trước khi FED phát biểu. Cùng lúc đó, ETH cũng chịu chung số phận khi sập mạnh về khu vực $1,630 và hiện được giao dịch quanh mốc $1,881.
Tuy vậy, nhiều người vẫn rất lạc quan và kỳ vọng về xu hướng tăng trong thời gian tới của tiền điện tử khi những bất ổn trong hệ thống tài chính truyền thống bắt đầu lộ ra cùng với lạm phát, đồng USD mất giá, suy thoái kinh tế gia tăng,… khiến crypto trở thành một loại tài sản trú ẩn an toàn, cũng như kỳ vọng về việc giảm lãi suất của FED trong thời gian tới sẽ thúc đẩy dòng tiền chảy vào thị trường này khi nó phát huy chức năng và trở thành một kênh đầu tư sáng giá.
Khi lạm phát được giải quyết, lãi suất sẽ không còn là vấn đề mà các nhà đầu tư phải đối mặt. Điều này là tất yếu, không thể tránh khỏi và khi nó xảy ra, thị trường tiền điện tử sẽ tiếp tục đi theo quỹ đạo vốn có. Nhưng chúng ta cần thời gian và sẵn sàng đón nhận một tương lai đầy hứa hẹn nếu bạn có tầm nhìn đủ xa với thị trường này.